Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính là gì? Các công bố khoa học về Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD - Chronic Obstructive Pulmonary Disease) là một loại bệnh lý mạn tính của hệ thống hô hấp, gây ra sự suy giảm dần và không th...

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD - Chronic Obstructive Pulmonary Disease) là một loại bệnh lý mạn tính của hệ thống hô hấp, gây ra sự suy giảm dần và không thể đảo ngược được của chức năng phổi. Bệnh này xuất phát từ việc co thắt, viêm nhiễm và phá hủy tiền căn quanh phế quản và phế nang phổi, dẫn đến sự suy giảm dòng không khí thông qua các đường thở nổi và gây ra triệu chứng như khó thở, hoặc nắng sương và ho kéo dài. COPD thường chủ yếu do hút thuốc lá và có thể gặp ở cả người mắc một số bệnh hô hấp khác như viêm phế quản mạn tính hay tiếp xúc với các chất ô nhiễm không khí.
COPD là một trạng thái mãn tính và không thể đảo ngược của hệ thống hô hấp. Bệnh này gây ra sự hạn chế dòng không khí và khó thở. Các triệu chứng của COPD bao gồm:
1. Khó thở: Đây là triệu chứng chính của COPD. Ban đầu, khó thở có thể chỉ xảy ra khi hoạt động, nhưng sau đó có thể xảy ra trong cả khi nghỉ ngơi.
2. Ho: Ho kéo dài và nhiều nhời là một triệu chứng phổ biến của COPD. Ho thường xảy ra do việc sản sinh nhiều đàm trong phế quản và phổi.
3. Nắng sương: Lưu lượng không khí giảm đi khi bạn thở ra. Điều này làm cho việc thở trở nên khó khăn và gây ra cảm giác nặng nề trong ngực.
4. Sản xuất đàm nhiều: COPD thường đi kèm với viêm nhiễm và sản xuất đàm nhiều hơn bình thường.
5. Ho khan: Một số người có thể kinh nghiệm một loại ho khô, đau đớn trong ngực, và không có ra đàm.

Các nguyên nhân chủ yếu gây ra COPD bao gồm hút thuốc lá, tiếp xúc với chất ô nhiễm không khí, tiếp xúc với hóa chất độc hại trong môi trường công việc, và di truyền (khi người có gia đình có COPD). Hút thuốc lá được xem là nguyên nhân chính gây ra COPD, và khoảng 90% trường hợp COPD được liên kết với hút thuốc lá.

Để chẩn đoán COPD, các bác sĩ sẽ thực hiện các xét nghiệm hô hấp, như đo lưu lượng không khí, kiểm tra chức năng phổi và CT scanner để xem xét tình trạng của phổi.

COPD không thể chữa khỏi hoàn toàn, nhưng có thể được quản lý và điều trị để giảm triệu chứng và ngăn ngừa sự tiến triển của bệnh. Điều trị COPD bao gồm ngưng hút thuốc lá, sử dụng thuốc giảm viêm và giúp mở rộng đường thở, thực hiện phương pháp tập hô hấp và tăng cường vận động thể chất.

Nếu không được điều trị, COPD có thể gây ra các biến chứng nghiêm trọng như viêm phổi nặng, thiếu oxy, suy tim và tử vong.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính":

Sự tiếp xúc với khói thuốc lá môi trường trong suốt đời và nguy cơ mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - - 2005
Tóm tắtGiới thiệu

Sự tiếp xúc với khói thuốc lá môi trường (ETS), chứa các chất kích thích đường hô hấp mạnh, có thể dẫn đến viêm đường hô hấp mạn tính và tắc nghẽn. Mặc dù việc tiếp xúc với ETS có vẻ gây ra hen suyễn ở trẻ em và người lớn, nhưng vai trò của nó trong việc gây ra bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) đã nhận được sự chú ý hạn chế trong các nghiên cứu dịch tễ học.

Phương pháp

Với dữ liệu từ một mẫu dân số bao gồm 2,113 người trưởng thành ở Mỹ trong độ tuổi từ 55 đến 75, chúng tôi đã khảo sát mối liên hệ giữa việc tiếp xúc với ETS trong suốt đời và nguy cơ phát triển COPD.

Các đối tượng tham gia được tuyển chọn từ tất cả 48 tiểu bang lân cận của Mỹ thông qua gọi điện ngẫu nhiên. Việc tiếp xúc với ETS trong suốt đời được xác định qua phỏng vấn điện thoại có cấu trúc. Chúng tôi sử dụng một phương pháp dịch tễ học tiêu chuẩn để định nghĩa COPD dựa trên chẩn đoán tự báo cáo của bác sĩ về viêm phế quản mạn tính, bệnh phổi tắc nghẽn hoặc COPD.

Kết quả

Việc tiếp xúc tích lũy tại nhà và nơi làm việc trong suốt đời cao hơn được liên kết với nguy cơ mắc COPD cao hơn. Tầng thứ tư cao nhất của việc tiếp xúc với ETS tại nhà trong suốt đời được liên kết với nguy cơ mắc COPD cao hơn, kiểm soát các yếu tố tuổi tác, giới tính, chủng tộc, lịch sử hút thuốc cá nhân, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân và sự tiếp xúc nghề nghiệp với hơi nước, khí, bụi, hoặc khói trong công việc lâu nhất (OR 1.55; 95% CI 1.09 đến 2.21). Tầng thứ tư cao nhất của việc tiếp xúc với ETS tại nơi làm việc cũng liên quan đến nguy cơ mắc COPD cao hơn (OR 1.36; 95% CI 1.002 đến 1.84). Phần trăm dân số chịu trách nhiệm là 11% cho tầng thứ tư cao nhất về tiếp xúc ETS tại nhà và 7% cho sự tiếp xúc tại nơi làm việc.

Kết luận

Việc tiếp xúc với ETS có thể là một nguyên nhân quan trọng gây ra COPD. Do đó, các chính sách công nhằm ngăn chặn việc hút thuốc nơi công cộng có thể làm giảm gánh nặng về cái chết và tàn tật liên quan đến COPD, qua việc giảm thiểu cả hút thuốc trực tiếp và sự tiếp xúc với ETS.

Phân tích chi phí bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD): một tổng quan hệ thống Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 11 Số 1 - 2021
Tóm tắt Đặt vấn đề

Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) là một bệnh có thể điều trị với tỷ lệ mắc cao, và tỷ lệ bệnh tật cao liên quan đến chi phí kinh tế xã hội đáng kể.

Mục tiêu

Thực hiện một tổng quan hệ thống của tài liệu để phân tích các nghiên cứu chi phí chính liên quan đến COPD, nhằm xác định các yếu tố chính ảnh hưởng đến chi phí của bệnh.

Phương pháp

Các tìm kiếm đã được thực hiện trong các cơ sở dữ liệu PubMed, SCOPUS và Web of Science cho các nghiên cứu chi phí về COPD được xuất bản bằng tiếng Anh, trong khoảng thời gian từ năm 2015 đến 2020. Các từ khóa tìm kiếm là “COPD” HOẶC “bệnh phổi, tắc nghẽn mạn tính”, “chi phí*” HOẶC “chi phí bệnh”, “tác động kinh tế” VÀ “gánh nặng bệnh tật”. Các tiêu chí bao gồm việc xác định chi phí đã báo cáo của bệnh, gánh nặng kinh tế, chi phí chăm sóc y tế hoặc sử dụng tài nguyên cho COPD, phương pháp được sử dụng, nguồn dữ liệu và các biến được nghiên cứu.

Kết quả

Có 18 tài liệu được phân tích: 17 tài liệu bao gồm chi phí y tế trực tiếp, 6 bao gồm chi phí không liên quan trực tiếp đến y tế, 12 phân tích chi phí gián tiếp và hai báo cáo chi phí vô hình. Hầu hết các nghiên cứu báo cáo dữ liệu cho các nước phát triển và châu Âu, với chi phí trực tiếp là mảng được nghiên cứu nhiều nhất. Các xu hướng được quan sát thấy trong nhiều nghiên cứu về chi phí trực tiếp và chi phí chăm sóc sức khỏe của các nước châu Âu được đo bằng bệnh nhân và năm, trong đó chi phí cao hơn liên quan đến COPD nặng hơn và lịch sử tái phát thường xuyên. Chi phí cao nhất được báo cáo tương ứng với việc nhập viện và điều trị bằng thuốc liên quan. Vai trò của việc mất năng suất và nghỉ hưu sớm trong hồ sơ bệnh nhân COPD cũng được nhấn mạnh như là yếu tố chính sinh ra chi phí gián tiếp của bệnh.

Nhu cầu chưa được đáp ứng của bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD): một nghiên cứu định tính về bệnh nhân và bác sĩ Dịch bởi AI
BMC Family Practice - - 2014
Tóm tắt Đặt vấn đề

Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính (COPD) là một bệnh lý mãn tính với các đợt bùng phát lặp lại dẫn đến suy giảm dần dần. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân mắc COPD được cho là kém mặc dù đã có nhiều nỗ lực nhằm cải thiện khả năng tự quản lý. Tuy nhiên, có những bằng chứng mâu thuẫn về lợi ích của việc tự quản lý trong COPD. Liệu điều này có thể do các nhu cầu chưa được đáp ứng khác của bệnh nhân hay không vẫn chưa được nghiên cứu. Do đó, chúng tôi đã đặt mục tiêu khám phá các nhu cầu chưa được đáp ứng của bệnh nhân từ cả bệnh nhân lẫn bác sĩ điều trị COPD.

#COPD #nhu cầu chưa được đáp ứng #tự quản lý #sức khỏe tâm lý #sức khỏe thể chất
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TUÂN THỦ ĐIỀU TRỊ Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 2 - 2021
Mục tiêu: Mô tả thực trạng tuân thủ điều trị ở bệnh nhân Bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD). Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên bệnh nhân COPD điều trị ngoại trú tại khoa khám bệnh, bệnh viện Lão khoa Trung ương và bệnh viện đa khoa Đống Đa. Tuân thủ sử dụng thuốc của bệnh nhân được đánh giá theo thang Morisky-8. Bộ câu hỏi gồm 8 câu liên quan đến việc sử dụng thuốc. Đánh giá tuân thủ sử dụng thuốc dựa vào tổng điểm: 8 điểm là tuân thủ tốt, 6 đến 7 điểm là tuân thủ trung bình, dưới 6 điểm là tuân thủ kém. Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên 286 người bệnh điều trị COPD ngoại trú. Độ tuổi trung bình 69,3 ± 9,2 tuổi. Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt 49,3%, bệnh nhân tuân thủ trung bình là 32,2%, bệnh nhân tuân thủ kém là 18,5%. Có 25,5% bệnh nhân thỉnh thoảng quên sử dụng thuốc, 23,5% trong 2 tuần có ngày không dùng thuốc, 17,8% cảm thấy khó khăn khi phải nhớ dùng tất cả các loại thuốc. Kết luận: Tỷ lệ bệnh nhân chưa tuân thủ điều trị tốt (tuân thủ trung bình và kém) trong nghiên cứu của chúng tôi khá cao 50,7%, mà nguyên nhân chính là do bệnh nhân quên dùng thuốc hoặc khó khăn khi nhớ tất cả các loại thuốc phải dùng. Để khắc phục tình trạng này cần có sự hỗ trợ nhắc nhở thường xuyên của người nhà, của nhân viên y tế để giúp bệnh nhân tuân thủ điều trị tốt hơn.
#COPD #bệnh nhân ngoại trú #tuân thủ dùng thuốc
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG CỦA NGƯỜI BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH THEO CÔNG CỤ SGA TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 103 NĂM 2015
Người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (COPD) khi nằm viện thường bị suy dinh dưỡng.Suy dinh dưỡng (SDD) khi nằm viện làm tăng nguy cơ mắc bệnh, kéo thời gian nằm viện và tửvong. Mục tiêu: Xác định tình trạng dinh dưỡng ở người bệnh COPD trong 48 giờ đầu nhập khoavà khi xuất khoa bằng công cụ đánh giá chủ quan toàn diện (SGA). Phương pháp: Nghiên cứumô tả cắt ngang, tiến hành từ tháng 12/2014 đến tháng 5/2015 tại khoa AM3 Bệnh viện Quân Y103, với tổng số 96 người bệnh. Kết quả: Độ tuổi trung bình của người bệnh trong nghiên cứulà 67,2 ± 6,6 tuổi. Khi nhập khoa có 58,3% số người bệnh có nguy cơ suy dinh dưỡng mức độvừa (SGA-B), 11,5 % suy dinh dưỡng mức độ nặng (SGA-C). Trong số các bệnh nhân có SGA-Bchủ yếu gặp các triệu chứng teo cơ mức độ vừa/nhẹ (50%), stress chuyển hóa nhẹ/vừa 45,8%.Bệnh nhân SGA-C tập trung chủ yếu 4 triệu chứng: thay đổi cân nặng trong 6 tháng với mức >10% (31,2%), teo cơ nặng (13,5%) và mất lớp mỡ dưới da nặng (11,4%), giảm khẩu phần ăn mứcnhiều và nặng (10,4%). Khi xuất khoa có 5 người bệnh thuộc nhóm SGA-B khi nhập khoa tiếp tụcsuy dinh dưỡng nên tình trạng dinh dưỡng khi xuất khoa ở nhóm SGA-B là 53,1% và SGA-C là16,7%). Có sự khác biệt về tỷ lệ suy dinh dưỡng giữa nhập khoa với xuất khoa (p<0,001, Fisher).Kết luận: Theo công cụ SGA, tỷ lệ người bệnh COPD có nguy cơ suy dinh dưỡng khi nhập khoalà 69,8%. Tỷ lệ người bệnh COPD suy dinh dưỡng nặng tăng theo thời gian nằm viện.
#Suy dinh dưỡng của bệnh nhân nằm viện #công cụ SGA #bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #Bệnh viện Quân Y 103
Thay đổi kiến thức tuân thủ điều trị của người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định năm 2017
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 2 Số 2 - Trang 30-37 - 2019
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức tuân thủ điều trị và đánh giá thay đổi kiến thức tuân thủ điều trị của người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính năm 2017. Phương pháp nghiên cứu: Thực hiện can thiệp giáo dục trên 1 nhóm đối tượng và tiến hành so sánh trước – sau. Đối tượng nghiên cứu là 90 người mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị ngoại trú tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định. Dữ liệu được thu thập bằng cách sử dụng một bộ câu hỏi được thiết kế sẵn để đánh giá thực trạng kiến thức của đối tượng nghiên cứu trước can thiệp và những thay đổi ngay sau can thiệp cũng như 8 tuần sau can thiệp. Kết quả: Sau can thiệp tỷ lệ NB có kiến thức về tuân thủ điều trị được cải thiện có ý nghĩa thống kê: điểm trung bình trước can thiệp là 8,57 ± 3,07 trên tổng số 37 điểm của thang đo; ngay can thiệp T2 là 21,94 ± 2,47 và còn ở mức cao 18,65 ± 2,97 ở thời điểm sau can thiệp 8 tuần (p < 0,001). Kết luận: Kiến thức về tuân thủ điều trị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính NB còn nhận thức hạn chế ở thời điểm trước can thiệp giáo dục nhưng có cải thiện đáng kể sau can thiệp giáo dục.
#bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #tuân thủ điều trị #can thiệp
TÌNH HÌNH DINH DƯỠNG CỦA NGƯỜI BỆNH MẮC BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH TẠI BỆNH VIỆN PHỔI TRUNG ƯƠNG NĂM 2021
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Mục tiêu: nghiên cứu thực hiện nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng trên bệnh nhân mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tínhtại khoa Bệnh phổi mạn tính Bệnh viện Phổi Trung ương từ tháng 12 năm 2020 đến tháng 5 năm 2021. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 106 người bệnh được thu thập bằng cách chọn mẫu thuận tiện. Kết quả: Đối tượng có BMI trong giới hạn bình thường (18,5 ≤ BMI < 25) là 32,08%. Đối tượng thấp cân (BMI < 18,5) là 58,49% và thừa cân, béo phì (BMI ≥ 25) là 9,43%. BMI trung bình của ĐTNC là 18,1±3,13 và 81,13% đối tượng nghiên cứu được xác định là có suy dinh dưỡng theo SGA. Trong 106 ĐTNC có 51 bệnh nhân (48,11%) được chẩn đoán có tình trạng suy dinh dưỡng nặng (SGA-C), 35 bệnh nhân (33,02%) được chẩn đoán suy dinh dưỡng mức độ nhẹ hoặc vừa (SGA-B) và 20 bệnh nhân (18,87%) có tình trạng dinh dưỡng tốt (SGA-A). Kết luận: tỷ lệ bệnh nhân COPD bị suy dinh dưỡng chiếm tỷ lệ cao, do đó cần có biện pháp cải thiện tình trạng dinh dưỡng của người bệnh mắc bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại Bệnh viện Phổi trung ương.
#Tình trạng dinh dưỡng #bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính #Bệnh viện Phổi Trung ương
Thay đổi kiến thức tự chăm sóc của người bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại khoa nội hô hấp bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh năm 2017
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐIỀU DƯỠNG - Tập 2 Số 2 - Trang 06-13 - 2019
Mục tiêu: Đánh giá sự thay đổi kiến thức tự chăm sóc của người bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính tại khoa nội hô hấp bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ninh năm 2017. Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp có so sánh trước sau được thực hiện từ 3/2016 - 7/2017 trên 60 người bệnh được lựa chọn ngẫu nhiên từ toàn bộ người bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính đang được quản lý điều trị tại khoa Nội hô hấp, bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ninh. Các đối tượng được phỏng vấn trực tiếp bằng bảng hỏi thiết kế sẵn gồm18 câu, mỗi câu có thể có nhiều lựa chọn. Đối tượng có tổng điểm trả lời ≥ 36 điểm thì được coi là đạt kiến thức. Kết quả: Có 35% ĐTNC biết được nguyên nhân chính gây ra BPTNMT là hút thuốc lá sau can thiệp đạt 100%, có 63,3% ĐTNC có tái khám thường xuyên sau can thiệp tỷ lệ này tăng lên 93,8%, có 21,7% ĐTNC đưa ra quyết định là phải đi khám lại để bác sỹ quyết định khi thấy tình trạng bệnh nặng lên sau can thiệp tỷ lệ này tăng là 100%. trước can thiệp 33,3% ĐTNC thường xuyên lắc ống thuốc trước khi sử dụng sau can thiệp 100%. Kết luận:Tỷ lệ kiến thức tự chăm sóc của người bệnh trước can thiệp là 26,7% , tỷ lệ kiến thức tự chăm sóc của người bệnh sau can thiệp là 100%.
#Tự chăm sóc #bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
NHẬN XÉT DUNG TÍCH TOÀN PHỔI Ở BỆNH NHÂN BỆNH PHỔI TẮC NGHẼN MẠN TÍNH ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ TẠI TRUNG TÂM HÔ HẤP BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Nhận xét kết quả đo dung tích toàn phổi của bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị ngoại trú tại trung tâm hô hấp bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 211 bệnh nhân có chẩn đoán xác định là COPD theo GOLD 2020 được điều trị ngoại trú tại trung tâm hô hấp bệnh viện Bạch Mai trong thời gian từ 08/2021 đến tháng 08/2022 và đồng ý tham gia vào nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu được khai thác tiền sử, khám lâm sàng, cận lâm sàng và đo phế thân ký để ghi nhận các chỉ số nghiên cứu. Kết quả: Đối tượng nghiên cứu có tuổi trung bình 70,12 ± 7,99 tuổi; tỷ lệ nam/ nữ = 25/1; 94,2% bệnh nhân có hút thuốc, lượng thuốc hút trung bình là 23,27 ± 13,31 bao x năm; 83,4% bệnh nhân có bệnh đồng mắc, hay gặp nhất là tăng huyết áp (43,6%); triệu chứng cơ năng hay gặp nhất là khó thở (98,1%), ho (92,9%), khạc đờm (72,3%); 19,9% có trầm cảm; triệu chứng thực thể hay gặp nhất là rì rào phế nang giảm hoặc mất (91,5%), gõ lồng ngực vang (71,6%), lồng ngực hình thùng (49,3%); 43,2% có bất thường trên điện tim, bất thường hay gặp nhất là dày nhĩ phải (16,1%); 86,4% tăng áp lực động mạch phổi trên siêu âm tim, ở mức nhẹ hoặc vừa; 78,6% có giãn phế nang trên X-quang ngực, 62,8% có khí phế thũng trên cắt lớp vi tính ngực trong đó hay gặp nhất là thể trung tâm tiểu thùy; FEV1 trung bình là 45,35 ± 16,76%, FVC trung bình là 75,25 ± 21,67%, Gaensler trung bình là 45,05 ± 9,6; TLC trung bình là 124,15 ± 35,43%, RV trung bình là 180,88 ± 95,9%, FRC trung bình là 161,67 ± 66,74%, RV/TLC trung bình là 138,74 ± 39,98%. Tỷ lệ TLC, RV, FRC, RV/TLC ≥ 120% lần lượt là 47,4%, 74,4%, 70,6%, 67,3%; TLC có mối tương quan tuyến tính đơn biến với các yếu tố hút thuốc, mMRC, lồng ngực hình thùng, rale rít ngáy, rì rào phế nang giảm hoặc mất, giãn phế nang trên X-quang, khí phế thũng trên cắt lớp vi tính; trong phân tính tương quan tuyến tính đa biến, lồng ngực hình thùng là yếu tố độc lập có ý nghĩa dự đoán về sự tăng TLC. Kết luận: Tỷ lệ TLC, RV, FRC, RV/TLC ≥ 120% lần lượt là 47,4%, 74,4%, 70,6%, 67,3%. TLC có mối tương quan tuyến tính đơn biến với các yếu tố hút thuốc, mMRC, lồng ngực hình thùng, rale rít ngáy, rì rào phế nang giảm hoặc mất, giãn phế nang trên X-quang, khí phế thũng trên cắt lớp vi tính. Lồng ngực hình thùng là yếu tố độc lập có ý nghĩa dự đoán về sự tăng TLC
#TLC #phế thân ký #bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính
3. Nồng độ Procalcitonin và C-Reactive Protein huyết tương ở đợt cấp bệnh nhân bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhiễm khuẩn
Nghiên cứu sự biến đổi nồng độ PCT, CRP huyết tương trong đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính (AECOPD) ở 200 bệnh nhân mới nhập viện: 123 bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhiễm khuẩn (nhóm bệnh), 77 bệnh nhân đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính không có nhiễm khuẩn (nhóm chứng) tại Bệnh viện Phổi Trung ương từ tháng 7/2021 đến tháng 6/2022. Kết quả: căn nguyên vi sinh ở nhóm AECOPD nhiễm khuẩn nhiều nhất là vi khuẩn A. baumannii (27,66%), K. pneumonia (13,83%), P. aeruginosa (12,76%). Nhóm bệnh có nồng độ PCT, CRP huyết tương cao hơn nhóm chứng, lần lượt là 7,30 ± 23,54 ng/ml; 76,70 ± 57,06 mg/l so với 0,07 ± 0,12 ng/ml; 10,05 ± 10,85 mg/l với p < 0,01; p < 0,001. Nồng độ CRP và PCT huyết tương tương quan thuận với SLBC với hệ số r = 0,502; 0,396 với p < 0,001.
#PCT #CRP #đợt cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính nhiễm khuẩn
Tổng số: 144   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10